Wednesday, March 31, 2010

HƠN 50 NĂM ĐI TÌM ĐỒNG THUẬN VỀ HIỆP ĐỊNH GENEVA 1954.

HƠN 50 NĂM ĐI TÌM ĐỒNG THUẬN VỀ HIỆP ĐỊNH GENEVA 1954.
Ngày 7/07/2007 - Luật Sư Nguyễn Hữu Thống

12 giờ đêm 20-7-1954, tại Điện Liên Quốc Geneva, không phải chỉ có một hiệp định, mà có tất cả ba Hiệp Định Geneva cùng được ký kết là:

1) Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam;

2). Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Ai Lao; và

3). Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Căm Bốt.

Từ đó đến nay đã hơn 50 năm. Trong thời gian này có nhiều tài liệu sách báo, nhiều cuộc thuyết trình hội thảo bàn về Hiệp Định Geneva về Việt Nam. Tuy nhiên cho đến nay chúng ta vẫn không có đồng thuận về tính chất và tác dụng của Hiệp Định. Bất đồng giữa người dân chủ và người cộng sản; bất đồng giữa những người dân chủ trong cùng một chiến tuyến; bất đồng giữa những sử gia hay luật gia và một số những người hoạt động chính trị.

Các nhà sử học và luật học chỉ tham chiếu vào nguyên bản Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 để kết luận rằng, về tính chất, đây là một hiệp ước thuần túy quân sự tương tự như Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự Bàn Môn Điếm ký kết tại Triều Tiên trước đó một năm, ngày 27-7-1953.

Hai Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự này hiển nhiên có tính chất quân sự và có tác dụng ngừng bắn (cease-fire) hay đình chiến (armistice), đồng thời quy định một giới tuyến quân sự (military line) làm biên giới (boundary) cho hai miền Nam Bắc: vĩ tuyến 38 tại Triều Tiên và vĩ tuyến 17 tại Việt Nam. Vì là những hiệp ước thuần túy quân sự nên chúng không có tác dụng chính trị, và không đưa ra giải pháp chính trị như tổng tuyển cử để thống nhất hai miền Nam Bắc. Cho đến nay, sau 54 năm, vẫn chưa có một giải pháp chính trị cho vấn đề thống nhất Triều Tiên.

Trong khi đó, một số những người hoạt động chính trị lại khẳng định rằng, ngoài Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 còn có thêm văn kiện ngày 21-7-1954. Đối với họ, văn kiện này là một hiệp ước chính trị, vì nó đưa ra giải pháp thống nhất hai miền Nam Bắc bằng tổng tuyển cử vào năm 1956. Đây là lập trường cố hữu của Đảng Cộng Sản, theo đó, vì Việt Nam Cộng Hòa đã không thi hành Hiệp Định Geneva 1954 và không tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước bằng đường lối hòa bình, nên Bắc Việt phải dùng võ trang để thống nhất quốc gia. Thật ra văn kiện ngày 21-7-1954 không phải là một hiệp ước hay hiệp định, mà chỉ là một bản tuyên bố mệnh danh là “Tuyên Ngôn Sau Cùng” (Final Declaration).

Có 9 quốc gia tham dự Hội Nghị Geneva 1954 là Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc và 4 quốc gia Đông Dương là hai nước Việt Nam, Ai Lao và Cam Bốt.

Điều đáng chú ý là trong số 9 phái đoàn, không có đại diện quốc gia nào ký tên vào bản Tuyên Ngôn Sau Cùng ngày 21-7-1954, kể cả Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Trong khi đó trong Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự Geneva ngày 20-7-1954 chỉ có hai chữ ký của hai tướng lãnh là:

1). Thiếu Tướng Henri Delteil đại diện Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương; và

2). Thiếu Tướng Tạ Quang Bửu, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng, đại diện Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (Bắc Việt), Tổng Tư Lệnh các đơn vị chiến đấu Pathet Lào và Tổng Tư Lệnh các lực lượng Kháng Chiến Khờ-Me.

Có nhiều phương cách để diễn giải Hiệp Định Geneva 1954:

1). Theo danh xưng chính thức, đây là Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam, tương tự như Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Triều Tiên ký một năm trước đó, ngày 27-7-1953.

Đã gọi là “đình chỉ chiến sự” thì chỉ có thể là một hiệp định đình chiến hay ngừng bắn nghĩa là một hiệp định thuần túy quân sự. Nó không thể đề cập đến những vấn đề chính trị như tổng tuyển cử để thống nhất hai miền Nam Bắc. Đó cũng là tính chất và tác dụng của Hiệp Định Bàn Môn Điếm (Triều Tiên) ngày 27-7-1953.

2). Quốc Gia Việt Nam không ký Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954, và cũng không ký Tuyên Ngôn Sau Cùng ngày 21-7-1954. Do đó Việt Nam Cộng Hòa không có nghĩa vụ pháp lý phải tổ chức tổng tuyển cử vào năm 1956.

3). Hoa Kỳ cũng đã không ký Hiệp Định Geneva 1954 vì Hoa Kỳ không tham gia vào Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất (1946-1954). Ngày 18-7-1954 tại Hoa Thịnh Đốn, Tổng Thống Eisenhower minh thị tuyên bố Hoa Kỳ không bị ràng buộc bởi Hiệp Định Geneva 1954.

4). Trong khi đó Quốc Gia Việt Nam đã tham gia Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất từ 1949 sau khi thâu hồi chủ quyền độc lập do Hiệp Định Élysée ký ngày 8-3-1949 giữa Tổng Thống Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại. Với tư cách đại diện Quốc Gia Việt Nam, phái đoàn Việt Nam đã tham dự Hội Nghị Geneva từ tháng 5-1954 với Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định, và từ tháng 6-1954 với Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ.

Từ 1949 Việt Nam là một quốc gia liên kết trong Khối Liên Hiệp Pháp. Người ký Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 là Thiếu Tướng Henri Delteil, đại diện Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương. Theo quy chế Liên Hiệp Pháp, trong thời chiến tranh, Việt Nam và Pháp cùng chiến đấu dưới danh nghĩa Quân Đội Liên Hiệp Pháp. Do đó chữ ký của vị tư lệnh hành quân Henri Delteil có hiệu lực ràng buộc Quốc Gia Việt Nam về mặt quân sự. Tướng Henri Delteil không có tư cách đại diện cho ba Quốc Gia Đông Dương về mặt chính trị, vì lúc này 3 nước Việt Nam , Ai Lao và Cam Bốt đã được độc lập chiếu các Hiệp Định Elysée ngày 8-3-1949, 20-7-1949 và 8-11-1949.

5). Quốc Gia Việt Nam đã thực sự tuân hành những điều khoản quy định trong Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự Geneva 1954, như ngừng bắn, đình chiến, trao đổi tù binh, tập kết quân cán chính theo giới tuyến quân sự (phía Nam vĩ tuyến 17), và đã tổ chức di tản gần một triệu đồng bào Miền Bắc tỵ nạn Cộng Sản trong thời hạn 300 ngày tập kết.

Như vậy Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự Geneva 1954 đã được thực sự thi hành về mặt quân sự. Quốc Gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng Hòa không có trách nhiệm tổ chức tổng tuyển cử năm 1956 để thống nhất hai miền Nam Bắc về mặt chính trị.

Muốn hiểu rõ vấn đề, chúng ta phải có cái nhìn bao quát từ 1949, là thời điểm ranh mốc lịch sử của Âu Châu và Á Châu.

Tại Âu Châu, tháng 10-1949 với sự thành lập Cộng Hòa Dân Chủ (Đông) Đức, Stalin kiện toàn Bức Màn Sắt gồm 7 nước: Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, An Ba Ni, Bun Ga Ri và Ru Ma Ni. Từ đó Đế Quốc Sô Viết thành hình. Và Chiến Tranh Lạnh hay Chiến Tranh Ý Thức Hệ bộc phát giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ.

Tại Á Châu, cũng trong tháng 10-1949, Mao Trạch Đông chiếm toàn thể Hoa Lục và thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Với tham vọng đế quốc, họ Mao tuyên bố sẽ giải phóng một ngàn triệu con người Á Châu khỏi ách đế quốc tư bản. Đây hiển nhiên là lời thách thức Thế Giới Dân Chủ.

Cũng trong năm 1949, tại Á Châu, tất cả các Đế Quốc Tây Phương như Mỹ, Anh, Pháp, Hòa Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu:

Năm 1946 Hoa Kỳ trả độc lập cho Phi Luật Tân, và Pháp trả độc lập cho Syria và Lebanon.

Trong những năm 1947 và 1948, Anh trả độc lập cho 5 nước Ấn Độ, Đại Hồi, Miến Điện, Tích Lan và Palestine.

Năm 1949, Pháp trả độc lập cho Việt Nam (tháng 3-1949), cho Ai Lao (tháng 7-1949) và cho Cao Miên (tháng 11-1949). Và Hòa Lan trả độc lập cho Nam Dương tháng 12-1949.

Nhân danh Chủ Tịch Liên Hiệp Pháp, Tổng Thống Vincent Auriol yêu cầu Quốc Gia Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Pháp trong tinh thần bình đẳng, hợp tác và hữu nghị.

Từ đó Việt Nam được hoàn toàn độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa và có quân đội riêng. Theo quy chế Liên Hiệp Pháp, Việt Nam và Pháp có chính sách ngoại giao chung và phòng thủ chung.

Về mặt quốc phòng, biên thùy củaViệt Nam là biên thùy của Liên Hiệp Pháp mà Cộng Hòa Pháp có nghĩa vụ phải bảo vệ. Giữa Việt Nam và Pháp có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Khi có chiến tranh, hai bên sẽ thiết lập một Bộ Tham Mưu Hỗn Hợp với một tướng lãnh Pháp làm tư lệnh hành quân và một tướng lãnh Việt Nam làm tham mưu trưởng.

Trở lại Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự Geneva ngày 20-7-1954, vì đây là một hiệp ước quân sự nên chỉ có 2 chữ ký của 2 tướng lãnh:

Thiếu tướng Henri Delteil và Thiếu Tướng Tạ Quang Bửu, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng. Cũng như trong Hiệp Định Đình Chiến Bàn Môn Điếm ngày 27-7-1953, chỉ có 2 chữ ký, một của vị tướng lãnh Hoa Kỳ đại diện Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Quốc tại Triều Tiên, và một của vị tướng lãnh Bắc Hàn đại diện Tổng Tư Lệnh Quân Đội Cộng Sản (Bắc Hàn và Trung Quốc).

Ngày 20-7-1954, Thiếu Tướng Tạ Quang Bửu đã ký cả 3 Hiệp Định Đình Chiến ở Việt Nam, ở Ai Lao và ở Cam Bốt. Lẽ tất nhiên, chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết, Tướng Tạ Quang Bửu thuộc Bộ Quốc Phòng không có quyền đại diện cho Ai Lao và Cam Bốt nếu đây là những Hiệp Ước Ngoại Giao có tác dụng chính trị.

Chúng ta hãy đối chiếu Hiệp Định Geneva 1954 với Hiệp Định Paris 1973:

Trái với Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954, Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973 là một hiệp ước ngoại giao có tác dụng chính trị (thống nhất Việt Nam). Do đó nó mang chữ ký của các ngoại trưởng Trần Văn Lắm (Việt Nam Cộng Hòa), William Rogers (Hoa Kỳ), Nguyễn Duy Trinh (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) và Nguyễn Thị Bình (Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam). Ngoài ra, cùng với Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc còn có 10 Quốc Gia đứng ra bảo lãnh sự thi hành Hiệp Định Paris 1973.

Theo Điều 15 Hiệp Định Paris 1973: “việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên căn bản thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào. Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và Miền Nam đồng thỏa thuận” (theo nguyên tắc nhất trí). Vậy mà, 2 năm sau, khi Hiệp Định Paris còn chưa ráo mực, Bắc Việt đã đem quân xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa. Luật pháp văn minh của loài người đã bị thay thế bởi Luật Rừng Xanh. Đây là một vi phạm cực kỳ thô bạo.

Trong khi đó Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự Geneva ngày 20-7-1954 và Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự Bàn Môn Điếm ngày 27-7-1953 là những bản hiệp ước thuần túy quân sự và có tác dụng ngừng bắn hay đình chiến, nhằm quy định một giới tuyến quân sự là biên giới của hai miền Nam Bắc (vĩ tuyến 17 Bắc tại Việt Nam và vĩ tuyến 38 Bắc tại Triều Tiên). Tại vùng giới tuyến thuộc quyền kiểm soát của quân đội bên nào thì chính quyền bên ấy phụ trách việc quản trị hành chánh.

Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam gồm 6 Chương và 47 Điều, có nội dung thuần túy quân sự, như quy định giới tuyến, ngừng bắn, quân số, võ khí, căn cứ quân sự, liên minh quân sự, tha tù binh, thời hạn tập kết, không phong tỏa và không kình chống, Ban Liên Hợp Quân Sự và Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến, v.v...

Hội Nghị Geneva về Đông Dương được triệu tập đầu tháng 5-1954 với 9 phái đoàn tham dự:

1). Đại diện 3 cường quốc Tây Phương Mỹ, Anh, Pháp, là Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ Bedell Smith, Ngoại Trưởng Anh Eden, và Ngoại Trưởng Pháp Bidault.

2). Đại diện 2 cường quốc Cộng Sản là Ngoại Trưởng Nga Molotov và Thủ Tướng Chu Ân Lai. (Trung Quốc được mời tham dự vì có can thiệp vào Chiến Tranh Triều Tiên và Chiến Tranh Đông Dương).

3). Đại diện 4 quốc gia Đông Dương là Trần Văn Đỗ (Nam Việt), Phạm Văn Đồng và Tạ Quang Bửu (Bắc Việt), Sam Sary (Cao Miên), và một đại diện Ai Lao. Hai Ngoại Trưởng Anh, Nga là đồng chủ tịch Hội Nghị Geneva 1954.

Chương trình nghị sự là đình chiến hay ngừng bắn.

Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam đề nghị không chia cắt lãnh thổ, chỉ ngừng bắn tại chỗ hay ngừng bắn da beo dưới quyền kiểm soát của Liên Hiệp Quốc. Tới tháng 7-1954, quân đội Liên Hiệp Pháp vẫn kiểm soát các thị trấn lớn, kể cả đường chiến lược số 5 (Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng) và các giáo khu Bùi Chu, Phát Diệm. Quân số Pháp tại Điện Biên Phủ chỉ là 5% tổng số lực lượng Liên Hiệp Pháp. (Ngừng bắn tại chỗ cũng là đề nghị của phái bộ Hoa Kỳ trong Hội Nghị Bàn Môn Điếm). Tuy nhiên kinh nghiệm cho biết, trong giai đoạn hòa đàm, phe Cộng Sản vẫn vừa đánh vừa đàm, và số thương vong còn trầm trọng hơn cả trong giai đoạn vận động chiến. Kết cuộc Hội Nghị đã chấp nhận ngừng bắn hay đình chiến theo một giới tuyến: vĩ tuyến 38 tại Triều Tiên và vĩ tuyến 17 tại Việt Nam.

Hiệp Định Geneva được ký hồi 12 giờ đêm 20-7-1954. Đó là kỳ hạn chót để nội các Mendes France ký một hiệp định ngừng bắn tức khắc. Nếu không đạt được kết quả này thì ngày hôm sau nội các Mendes France sẽ từ chức. Ông đã minh thị cam kết như vậy với Quốc Hội Pháp khi nhậm chức thay thế Thủ Tướng Laniel ngày 17-6-1954. Không có sự chối cãi là Hiệp Định Geneva được ký kết ngày 20-7-1954 và KHÔNG CÓ HIỆP ĐỊNH GENEVA NÀO KHÁC ĐƯỢC KÝ NGÀY 21-7-1954. 3 giờ sau, sáng ngày 21-7-1954, Hội Nghị thông qua bản Tuyên Ngôn Sau Cùng (Final Declaration), trong đó có điều khoản khuyến cáo 2 nước Việt Nam tổ chức tổng tuyển cử vào tháng 7-1956.

Tuyên Ngôn Sau Cùng ngày 21-7-1954 không mang chữ ký của bất cứ đại diện phái đoàn nào của 9 quốc gia tham dự hội nghị. Đây chỉ là một bản tuyên ngôn ý định (Declaration of Intent) nói lên ý nguyện hay khuyến cáo của Hội Nghị. Hai tướng Henri Delteil và Tạ Quang Bửu cũng không ký vào Tuyên Ngôn Sau Cùng.

Về mặt pháp lý, tuyên ngôn không phải là hiệp ước, nên không có giá trị pháp lý và không có hiệu lực chấp hành.

Chúng ta đơn cử 4 thí dụ:

1). Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ ngày 4-7-1776 chỉ là một bản tuyên ngôn ý định, nói lên ý nguyện giải phóng dân tộc của nhân dân Hoa Kỳ trong một giai đoạn lịch sử. Nó không có giá trị pháp lý của một hiệp ước và không có hiệu lực chấp hành. Mãi 6 năm sau, Anh Quốc mới ký Hiệp Định năm 1782 để trao trả độc lập cho Hoa Kỳ.

2). Sau cuộc đảo chính Nhật ngày 9-3-1945, vua Bảo Đại đã công bố bản Tuyên Ngôn Việt Nam Độc Lập ngày 11-3-1945. Đây cũng chỉ là bản tuyên ngôn ý định nói lên ước nguyện của dân tộc Việt Nam. Mãi 4 năm sau, ngày 8-3-1949, Hiệp Định Élysée mới được ký kết để hủy bãi các Hiệp Ước Thuộc Địa, và Hiệp Ước Bảo Hộ để trao trả chủ quyền độc lập và thống nhất cho Quốc Gia Việt Nam.

3). Tuyên Ngôn Độc Lập của Sukarno ngày 17-8-1945 sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh. Vậy mà mãi 4 năm sau, tháng 12-1949 Hòa Lan mới ký Hiệp Định Amsterdam để trả độc lập cho Nam Dương.

4). Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 2-9-1945 của Hồ Chí Minh cũng chỉ là bản tuyên ngôn ý định, và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) chỉ được thừa nhận trên thực tế (9 năm sau) bởi Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự Geneva ngày 20-7-1954.

Do đó bản Tuyên Ngôn Sau Cùng ngày 21-7-1954, vì không mang chữ ký của bất cứ đại diện nào trong số 9 quốc gia tham dự Hội Nghị Geneva, nên không phải là một hiệp ước, không có giá trị pháp lý và không có hiệu lực chấp hành.

VÀ VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐÃ KHÔNG VI PHẠM HIỆP ĐỊNH GENEVA 1954 KHI TỪ CHỐI TỔ CHỨC TỔNG TUYỂN CỬ NĂM 1956.

Ngay trong ngày 21-7-1954, Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ đại diện Quốc Gia Việt Nam đã ra tuyên cáo phản kháng sự áp đặt các giải pháp chính trị trong một hiệp định thuần túy quân sự như Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự Geneva 1954, mà không có sự thỏa thuận và ký kết của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam. Vả lại các tướng lãnh Henri Delteil và Tạ Quang Bửu cũng không có tư cách đại diện cho nhân dân Việt Nam, Cam Bốt và Ai Lao để ký những hiệp ước ngoại giao nhằm giải quyết những vấn đề chính trị chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết.

Tại Triều Tiên, Hiệp Định Đình Chiến Bàn Môn Điếm được ký từ 54 năm nay. Vậy mà cho đến nay, vẫn chưa có một giải pháp chính trị nào để thực hiện sự thống nhất Triều Tiên.

Vả lại các Hiệp Định Đình Chiến ở Việt Nam, Ai Lao và Cao Miên do các Tướng Henri Delteil và Tạ Quang Bửu ký ngày 20-7-1954 cũng chỉ đề cập đến những vấn đề quân sự, như ngừng bắn, rút quân, quân số, võ khí, căn cứ quân sự, liên minh quân sự, tha tù binh, Ban Liên Hợp Quân Sự và Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến v...v.... (Trong Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Cam Bốt có chữ ký của Tướng Nhiek Tioulong, đại diện Tổng Tư Lệnh các Lực Lượng Vũ Trang Quốc Gia Khờ Me).

8 năm sau, năm 1962, cũng tại Geneva, một giải pháp chính trị về Quy Chế Trung Lập Ai Lao mới được các đại diện của 14 quốc gia ký kết trong Bản Tuyên Cáo ngày 23-7-1962 để thừa nhận nền trung lập của Ai Lao. Đó là:

- 5 ngoại trưởng của Ngũ Cường là Rusk (Hoa Kỳ), Home (Anh Quốc), Gromyko (Liên Xô), Couve de Mourville (Pháp) và Trần Nghị (Trung Cộng);

- 6 đại diện các quốc gia Đông Dương và kế cận là Ngoại Trưởng Vũ Văn Mẫu (Việt Nam Cộng Hòa), Ngoại Trưởng Ung Văn Khiêm (Bắc Việt), Tioulong (Căm Bốt), Pholsena (Ai Lao), Jayanama (Thái Lan) và U Thi Han (Miến Điện); và

- 3 đại diện các quốc gia trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến là Menon (Ấn Độ), Green (Gia Nã Đại) và Rapacki (Ba Lan).

Khác với Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Ai Lao ngày 20-7-1954, Bản Tuyên Cáo về Nền Trung Lập của Ai Lao ngày 23-7-1962 là một hiệp ước ngoại giao có tác dụng chính trị nhằm quyết định Quy Chế Trung Lập của Ai Lao.

Trở lại việc thực thi Hiệp Định Đình Chiến Geneva 1954, trong thời hạn tập kết 300 ngày, từ tháng 7-1954 đến tháng 5-1955, khi chính quyền Ngô Đình Diệm đang lo tổ chức cuộc di cư và định cư cho gần một triệu đồng bào Miền Bắc tỵ nạn Cộng Sản thì Hồ Chí Minh và Lê Duẩn đã chuẩn bị tái phát động chiến tranh theo lớp lang như sau:

- Chôn giấu võ khí để chờ cơ hội tái phát động chiến tranh.

- Gài các cán binh vào các cơ quan chính quyền địa phương hay các tổ chức quần chúng để tuyên truyền, phản gián và lũng đoạn.

- Xoa dịu đấu tranh đối với những thành phần mệnh danh là địa chủ để xóa bỏ hận thù. Nếu không dỗ dành được thì thủ tiêu.

- Tập kết ra Bắc những cán binh có khả năng để tái huấn luyện chờ ngày trở lại.

- Đặc biệt là trong những tuần lễ sau cùng của thời hạn tập kết, gấp rút tổ chức những đám cưới tập thể cho hàng vạn cán binh ra đi bỏ lại hàng vạn thiếu nữ trẻ, nhiều cô chỉ chung sống với chồng dăm ba hôm. Đó là kế hoạch cấy người, gây hạt nhân để 2 năm sau, khi những cán binh Miền Nam hồi kết, họ có sẵn những tiểu tổ bí mật để hoạt động, tuyên truyền và gây cơ sở quần chúng. Đồng thời thành lập các đơn vị võ trang địa phương để yểm trợ các lực lượng võ trang từ Miền Bắc kéo vào.

- Sau đó công khai hóa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để phát động chiến tranh võ trang nhằm thôn tính Miền Nam bằng võ lực.

Như vậy Bắc Việt đã vi phạm nghiêm trọng Hiệp Định Geneva 1954 bằng cách chuẩn bị chiến tranh võ trang ngay từ khi thời hạn tập kết 300 ngày chưa kết thúc.

Theo chính sách cố hữu của Cộng Sản, các hiệp ước ngoại giao chỉ là những cơ hội hay phương tiện nhằm thực hiện được những mục tiêu chính trị giai đoạn:

1. Ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny ngày 6- 3-1946 nhờ Pháp tống xuất quân đội Trung Hoa để thừa cơ thanh toán các đảng phái quốc gia như Quốc Dân Đảng, Đồng Minh Hội, Đại Việt, Duy Dân, v.v... Sau đó lại phát động Chiến Tranh Đông Dương Thứ I (1946-1954).

2. Ký Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự Geneva ngày 20-7-1954 để tống xuất quân đội Pháp và cướp chính quyền tại Miền Bắc. Sau đó lại phát động Chiến Tranh Đông Dương Thứ II để thôn tính Miền Nam.

3. Ký Hiệp Định Hòa Bình Paris ngày 27-1-1973 để tống xuất quân đội Hoa Kỳ. Và hai năm sau, khi Hiệp Định còn chưa ráo mực, lại phát động tổng tấn công võ trang để thôn tính Miền Nam.

Bằng những thủ đoạn gian manh trí trá, không đếm xỉa đến chữ ký và danh dự quốc gia, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đưa đất nước ra khỏi cộng đồng nhân loại văn minh. Đồng thời dạy cho các thế hệ thanh niên nam nữ những thủ đoạn gian manh quỷ quyệt làm suy đồi văn hóa đạo lý và sa đọa con người đến cả trăm năm về sau.

Hơn 50 năm nhìn lại chúng ta không khỏi ngậm ngùi:

Đại hạnh của Ấn Độ là có một Gandhi theo Chủ Nghĩa Dân Tộc.

Đại bất hạnh của Việt Nam là có một Hồ Chí Minh theo Chủ Nghĩa Quốc Tế Vô Sản.

PHỤ ĐÍNH

Để có tài liệu tham khảo trong việc tìm hiểu sự thật lịch sử, chúng tôi trích lược một số điều khoản căn bản trong hai tài liệu liên quan đến Hiệp Định Geneva 1954:

1) Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 có 2 chữ ký, một của Thiếu Tướng Tạ Quang Bửu, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thay mặt Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, và một của Thiếu Tướng Henri Delteil thay mặt Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương.

2) Tuyên Ngôn Sau Cùng ngày 21-7-1954 của Hội Nghị Geneva. Bản Tuyên Ngôn này không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào trong 9 quốc gia tham dự Hội Nghị. Hai Tướng Henri Delteil và Tạ Quang Bửu cũng không ký tên vào bản Tuyên Ngôn Sau Cùng.

Những tài liệu này được trích từ cuốn “Vì Độc Lập Hòa Bình: Đông Dương 1954/1973” do các tác giả Thế Nguyên, Diễm Châu, và Đoàn Tường xuất bản tại Saigon năm 1973, và đã được nhà Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ sau 1975. * * * TÀI LIỆU I

HIỆP ĐỊNH ĐÌNH CHỈ CHIẾN SỰ Ở VIỆT NAM NGÀY 20-7-1954

CHƯƠNG I:

GIỚI TUYẾN QUÂN SỰ TẠM THỜI VÀ KHU PHI QUÂN SỰ

Điều 1: Một giới tuyến quân sự tạm thời sẽ được quy định rõ, để lực lượng của hai bên, sau khi rút lui, sẽ tập hợp ở bên này và bên kia giới tuyến ấy: Lực lượng Quân đội Nhân Dân Việt Nam ở phía Bắc giới tuyến, Lực lượng Quân Đội Liên Hiệp Pháp ở phía Nam giới tuyến. CHƯƠNG II

NGUYÊN TẮC VÀ CÁCH THỨC THI HÀNH HIỆP ĐỊNH NÀY

Điều 10: Các Bộ Tư lệnh quân đội đôi bên, một bên là Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, một bên là Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương, sẽ ra lệnh hoàn toàn đình chỉ chiến sự ở Việt Nam cho tất cả lực lượng võ trang đặt dưới quyền của họ, kể tất cả các đơn vị và nhân viên Lục, Hải, Không quân, và bảo đảm sự thực hiện đình chỉ chiến sự đó (...)

CHƯƠNG III

CẤM ĐEM THÊM QUÂN ĐỘI, NHÂN VIÊN QUÂN SỰ, VŨ KHÍ ĐẠN DƯỢC MỚI-CĂN CỨ QUÂN SỰ

Các Điều 16 đến 19: Kể từ khi Hiệp Định này bắt đầu có hiệu lực, cấm không được tăng thêm vào nước Việt Nam mọi bộ đội và nhân viên quân sự, mọi thứ vũ khí đạn dược, không được thành lập những căn cứ quân sự mới hay những căn cứ quân sự ngoại quốc và không được gia nhập một Liên Minh Quân Sự nào.

CHƯƠNG IV

TÙ BINH VÀ THƯỜNG DÂN BỊ GIAM GIỮ

Điều 21: Việc tha và cho hồi hương những tù binh và những thường dân đang bị mỗi bên trong hai bên giam giữ sẽ tiến hành theo những điều kiện sau đây: Kể từ khi Hiệp Định này bắt đầu có hiệu lực, các tù binh và thường dân bị giam giữ sẽ được tha trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày sự ngừng bắn được thực sự thi hành tại mỗi chiến trường.

CHƯƠNG V

ĐIỀU KHOẢN LINH TINH

Điều 24: Hiệp Định này áp dụng cho tất cả những lực lượng vũ trang của đôi bên. Lực lượng vũ trang của mỗi bên sẽ phải tôn trọng khu phi quân sự và lãnh thổ đặt dưới quyền kiểm soát quân sự của bên kia và sẽ không có hành động hoặc hoạt động gì chống bên kia, hoặc một hoạt động phong tỏa bất cứ bằng cách nào ở Việt Nam. Danh từ “lãnh thổ” nói đây bao gồm cả hải phận và không phận.

CHƯƠNG VI

BAN LIÊN HỢP VÀ BAN QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM

Điều 26: Trách nhiệm thực hiện Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự là thuộc về hai bên.

Điều 29 và Điều 34: Viêc giám sát và kiểm soát sự thực hiện ấy do một Ban Quốc Tế bảo đảm. Ban ấy gồm một số đại biểu bằng nhau của Ấn Độ, Ba Lan và Gia Nã Đại, do Đại Biểu Ấn Độ làm chủ tịch....

Làm tại Giơ-neo-vơ ngày 20 tháng 7 năm 1954, lúc 24 giờ bằng tiếng Pháp và tiếng Việt Nam; cả hai bản đều có giá trị như nhau.

Thay mặt Tổng Tư Lệnh Thay mặt Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân Quân Đội Liên Hiệp Pháp Việt Nam ở Đông Dương TẠ QUANG BỬU HENRI DELTEIL Thứ Trưởng Bộ Quôc Phòng Thiếu Tướng Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa

TÀI LIỆU II

TUYÊN NGÔN SAU CÙNG NGÀY 21-7-1954

Ngày 21 tháng 7 năm 1954 của Hội Nghị Geneva về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương, với sự tham gia của đại biểu Cao Miên, Quốc gia Việt Nam, Mỹ, Pháp, Lào, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa, Anh và Liên Sô. Hội Nghị chứng nhận những bản Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Cao Miên, Lào, và Việt Nam và tổ chức sự kiểm soát quốc tế và sự giám sát việc thi hành những điều khoản của các Hiệp Định đó. Hội Nghị hài lòng về việc chấm dứt chiến sự ở Cao Miên, Lào và Việt Nam. Hội Nghị tỏ lòng tin tưởng rằng việc thi hành những diều khoản ghi trong bản Tuyên Bố này và trong những Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự làm cho ba nước Cao Miên, Lào và Việt Nam từ nay có thể nhận, với độc lập và chủ quyền hoàn toàn, vai trò của mình trong tập thể hòa bình của các nước.

Hội Nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị, thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau Tổng Tuyển Cử tự do và bỏ phiếu kín.

Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết và để thực hiện tất cả những điều kiện cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bầy tỏ ý muốn, cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956, dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc Tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám Sát và Kiểm Soát Quốc Tế đã nói trong Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự. Kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1955, những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó....

* * * Bản Tuyên Ngôn Sau Cùng ngày 21-7-1954 của Hội Nghị Geneva không có chữ ký của đại diện 9 quốc gia tham dự Hội Nghị, kể cả hai nước Việt Nam là Quốc Gia Việt Nam (Miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc). Đây chỉ là bản tuyên ngôn ý định, không phải là hiệp định nên không có hiệu lực chấp hành.

Theo các tác giả Thế Nguyên, Diễm Châu và Đoàn Tường trong cuốn Đông Dương 1945/1973, trang 28: “Cả hai phái đoàn Quốc Gia Việt Nam và Hoa Kỳ đã không ký bất cứ một văn kiện nào của Hội Nghị Genève 1954”

Luật Sư Nguyễn Hữu Thống

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.